Bảo đảm vũ khí đạn trong Chiến dịch Thượng Lào năm 1953

09/08/2022, 20:19

Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc (năm 1952), vùng giải phóng của ta tiến tới sát vùng Thượng Lào. Cách mạng Việt Nam có thêm điều kiện phối hợp với cách mạng Lào đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mùa Xuân năm 1953, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định sử dụng Đại đoàn 308, 312, 304, 316, Trung đoàn bộ binh 148 và nột số đơn vị pháo binh, công binh... (tổng quân số trên 45.000 người) cùng Quân giải phóng Pathét Lào mở chiến dịch Thượng Lào nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, giúp Bạn xây dựng căn cứ, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là lần đầu tiên ta sử dụng một binh lực lớn đánh địch trên đất nước bạn. 

Hoàng thân Xuvanuvông và Đại tướng Võ Nguyên Giáp bàn kế hoạch phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào, năm 1953.

Tham gia Bộ chỉ huy chiến dịch, về phía Bạn có Hoàng thân Xu-va-nu-vông, các đồng chí Cay-xỏn-Phôm-vi-hản và Thao Ma - Bí thư tỉnh ủy Sầm Nưa. Về phía Việt Nam có các đồng chí: Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tư lệnh chiến dịch, Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm chính trị, Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng, Nguyễn Văn Nam - Chủ nhiệm cung cấp chiến dịch và đồng chí Nguyễn Khang đặc trách công tác ở chiến trường nước Bạn. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến là: Tập trung ưu thế binh lực, đánh chắc thắng và cơ động nhanh chóng từ xa đến bao vây không cho địch tăng viện và rút lui, tiêu diệt một số cứ điểm quan trọng ở ngoại vi, nhanh chóng đánh vào trung tâm, chia cắt tiêu diệt địch.
 
Thượng Lào và vùng Tây Bắc nước ta là địa bàn rừng núi hiểm trở, kinh tế rất nghèo nàn, dân cư thưa thớt, nguồn lực rất hạn chế, đường sá xa xôi, gần 100 km đường tới Sầm Nưa trên đất bạn ta chưa nắm được; trong khi địch dùng mọi thủ đoạn đánh phá ác liệt; thời gian chuẩn bị ngắn (chưa đầy 3 tháng)... Để khắc phục những khó khăn trên, Tổng Quân ủy quyết định nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, bổ sung tương đối đầy đủ quân số, trang bị cho các đơn vị, chỉ đạo chỉnh huấn quân sự, diễn tập... và giữ nguyên bộ máy hậu cần chiến dịch Tây Bắc chuyển sang chuẩn bị cho chiến dịch Thượng Lào. Để bảo đảm vũ khí trang bị, lương thực, thuốc men... cho chiến dịch, tháng 01/1953, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận. Các Liên khu: Việt Bắc, 3, 4 và các tỉnh: Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An cũng thành lập Hội đồng cung cấp phục vụ chiến dịch. Tổng cục Cung cấp đã cử 3 đoàn cán bộ đi trước nghiên cứu nắm tình hình, chuẩn bị chiến trường về hậu cần... 
 
Nhu cầu vũ khí, đạn dược của chiến dịch khá lớn: trên hướng Sầm Nưa là 130 tấn, hướng Xiêng Khoảng 60 tấn. Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Ban Quân khí tiền phương do đồng chí Phan Tử Lăng, Phó cục trưởng Cục Quân khí phụ trách. Quá trình chuẩn bị, Cục Quân khí đã cho chuyển vũ khí lên lập kho dự trữ ở Mộc Châu; khi bộ đội hành quân chuyển tiếp 60 tấn vào Sốp Bao. Để có đủ số lượng và chuyển đúng thời gian, Cục đã huy động vũ khí đạn còn lại của chiến dịch Tây Bắc và chuyển một phần từ kho ở Việt Bắc, Liên khu 3, 4 lên. Vũ khí đạn dược trước khi xuất kho đều được kiểm tra kỹ chất lượng, phân loại, đóng hòm, ghi rõ ký hiệu từng loại để tiện cho vận chuyển và cấp phát. 
 
Do khối lượng vận chuyển lớn, cự ly xa, đường sá hẹp, xấu và địch đánh phá ác liệt, xe ô tô ít... vì vậy, hậu cần chiến dịch xác định: Dùng vận tải thô sơ là chủ yếu, đồng thời tranh thủ cơ giới để đáp ứng nhu cầu tác chiến. Từ tháng 01/1953, các đoàn cán bộ đã đi nghiên cứu tình hình, chuẩn bị đường sá vào Thượng Lào, nhất là đường cho ô tô và đường sông. Tổng cục Cung cấp huy động thuyền ở Phú Thọ đưa lên Vạn Mai, phối hợp với công binh cải tạo một số thác để thuyền có thể ngược sông Mã lên Vạn Mai. Để điều hòa phối hợp lực lượng giữa các ngành, Tổng cục Cung cấp tổ chức các tuyến hậu cần. Trước yêu cầu của chiến dịch, Bộ Tổng Tư lệnh đã điều Trung đoàn công binh 151 làm nhiệm vụ sửa đường và bắc cầu bảo đảm cho các đơn vị hành quân vào tác chiến. 
 

Lược đồ các mũi tiến công của ta trong chiến dịch Thượng Lào, tháng 5/1953.

 
Trên hướng chủ yếu (vào Sầm Nưa), để tận dụng vận tải cơ giới mà vẫn giữ được bí mật, trên đường Vạn Mai - Suối Rút - Mộc Châu - Sốp Bao (160 km), ta sử dụng ô tô chuyển hàng kiểu “cuốn chiếu”. 10 ngày đầu dùng 30 xe chuyển hàng từ Vạn Mai lên Suối Rút. Sau đó dùng 60 xe (có lúc 72 xe) chuyển tiếp hàng từ Suối Rút lên Mộc Châu. Cuối tháng 3, dùng 54 xe (sau tăng lên 62 xe) chuyển tiếp từ Mộc Châu vào Sốp Bao nên đã nâng cao hiệu suất phương tiện và hiệu quả vận chuyển vật chất, vũ khí đạn. Để vượt sông Mã, lần đầu tiên công binh  dùng các thuyền lắp ghép thành phà chở ô tô qua sông; đồng thời huy động thuyền nan, thuyền độc mộc để chở bộ đội và dân công.
 
Trên hướng Xiêng Khoảng, Hội đồng cung cấp tỉnh Nghệ An dùng thuyền trên sông Lam; dân công và xe đạp thồ chuyển hàng từ Đô Lương lên Cửa Rào. Hội đồng cung cấp Liên khu 4 sử dụng 21.500 dân công và 463 xe đạp thồ chuyển hàng từ Cửa Rào tới Mường Xén giao cho Đại đoàn 304, sau đó 5.200 dân công đảm nhiệm chuyển tiếp tới các đơn vị. 
 
Trong giai đoạn chuẩn bị chiến dịch, vận tải cơ giới đã chuyển 1.080 tấn, vận tải thô sơ vận chuyển được 812 tấn đưa đến Sốp Hào (nơi sát mặt trận, vận tải cơ giới không vào được), bảo đảm bí mật và cung cấp đủ, kịp thời gạo, vũ khí đạn cho bộ đội bước vào tác chiến, đây là một thành công lớn.
 
Mạng lưới thông tin vô tuyến điện từ Việt Bắc tới Tây Bắc và các Liên khu 3, 4 cũng được thiết lập. Giữa các trạm vận tải, đại đội xe ô tô và binh trạm, giữa các kho có điện thoại để thường xuyên liên lạc. Do đó, Tổng cục Cung cấp và hậu cần mặt trận nắm được tình hình, chỉ huy giải quyết kịp thời nhiều khó khăn, vướng mắc.
 
Sau khi Đại đoàn 316 đánh vào Nà Sản để nghi binh lừa địch, ngày 08/4/1953 bộ đội chủ lực ta bí mật tiến sang Thượng Lào. Hướng chủ yếu gồm 3 Đại đoàn 308, 312 (2 trung đoàn) và 316 (1 trung đoàn), được tăng cường 4 đại đội sơn pháo, 2 tiểu đoàn pháo phòng không, 3 đại đội súng cối, 1 tiểu đoàn công binh và 1 đại đội trinh sát tiến theo Đường 6 sang Sầm Nưa. Hướng thứ yếu, Đại đoàn 304 được tăng cường 1 đại đội sơn pháo, 1 đại đội súng cối và 1 tiểu đoàn pháo phòng không, tiến theo đường 7 sang Xiêng Khoảng, chặn đường rút của địch từ Sầm Nưa xuống. Hướng phối hợp, Trung đoàn 148 theo lưu vực sông Nậm Hu tiến xuống uy hiếp Luôngphabăng. 
 
Về phía Bạn Lào, đồng chí Phu-mi-vông-vi-chít và Thao-tu chỉ huy tiểu đoàn quân Pathét Lào phối hợp cùng bộ đội Việt Nam tiêu diệt địch. Đồng chí Nhia-vu, Bí thư tỉnh ủy Xiêng Khoảng đi cùng cánh quân phía nam từ bản Tha Đo tiến vào Xiêng Khoảng. 
 

Liên quân Việt - Lào tiến vào giải phóng Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn, tháng 4/1953.

 
Trước sức tiến công mạnh mẽ của ta, đêm 12/4 địch rút chạy khỏi Sầm Nưa. Bộ đội ta chuyển sang truy kích địch, đêm 13/4 đuổi kịp và tiêu diệt bộ phận cuối của chúng ở Mường Hàm, bắt toàn bộ lực lượng cầm đầu Ngụy quyền tỉnh Sầm Nưa. 9 giờ ngày 14/4, ta đánh địch ở Nà Noọng (cách Sầm Nưa 30 km), diệt và bắt gần 300 tên. 7 giờ ngày 16/4, bộ đội ta đuổi kịp bộ phận đi đầu của địch ở Hứa Mường (cách Sầm Nưa 60 km), tiêu diệt và làm tan rã 4 đại đội, tiếp tục truy kích địch đến sát Cánh Đồng Chum. Trên hướng Đường 7, ta bao vây tiến công Noọng Hét, buộc địch rút chạy khỏi Bản Ban, Xiêng Khoảng về Cánh Đồng Chum. Hướng Phong Xa Lỳ - Mường Sài, ta giải phóng Mường Ngòi, Bản Sẻ, Pắc Soòng, Nậm Bạc, uy hiếp Luông Pha Băng... Ngày 18/5/1953, chiến dịch Thượng Lào kết thúc với trận tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Mường Khoa. Chiến dịch đã hoàn thành các mục tiêu đề ra, tạo điều kiện thuận lợi cho chuẩn bị chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và giúp cách mạng Lào tiến lên một bước, xây dựng được khu căn cứ kháng chiến, đề cao uy tín của Chính phủ Pathét Lào. Với địch, đó là một thất bại chiến lược.
 
Trong chiến dịch này, liên quân Việt - Lào đã diệt và bắt gần 2.800 tên địch, giải phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Phông Xa Lỳ với diện tích hơn 4.000 km2 và hơn 300.000 dân; mở rộng căn cứ kháng chiến của Lào nối liền với vùng Tây Bắc Việt Nam; thu 80 tấn vũ khí đạn dược, hơn 50 tấn lúa gạo, 100 tấn quân trang quân dụng, thuốc men. Số chiến lợi phẩm thu được, đặc biệt và vũ khí đạn đã bổ sung kịp thời cho các đơn vị chiến đấu, giúp khắc phục khó khăn về vận chuyển và dành lượng dự trữ của chiến dịch để bảo đảm cho chiến dịch khác. Trong chiến dịch Thượng Lào, hậu cần các cấp đã bảo đảm hơn 7.200 tấn vật chất (trong đó có 166 tấn vũ khí đạn dược), cứu chữa 490 thương binh; huy động 62.500 dân công (với 2.535.000 ngày công)... góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của chiến dịch. 
 
Chiến dịch Thượng Lào là chiến dịch lớn, dài ngày, lần đầu tiên diễn ra trên nước Bạn, bộ đội liên tục truy kích địch ở địa bàn rừng núi, đường sá khó khăn, nguồn lực tại chỗ rất hạn chế... Dưới sự lãnh đạo chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương Đảng, Chính phủ hai nước đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về huy động nhân tài, vật lực từ xa đưa đến kết hợp với tại chỗ; giải quyết đúng đắn quan hệ giữa hậu phương với mặt trận; hậu cần quân đội với hậu cần địa phương, hậu cần chiến dịch với Bạn... do vậy đã chuẩn bị chu đáo và bảo đảm kịp thời mọi nhu cầu cho tác chiến. Những kinh nghiệm quý báu đó đã được kế thừa, phát triển trong bảo đảm hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau này. 69 năm đã trôi qua, những kinh nghiệm đó vẫn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu kế thừa, phát triển phù hợp với điều kiện mới; nhằm phát huy, phát triển và tăng cường mối quan hệ truyền thống, đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt - Lào, trong đó có ngành Hậu cần - Kỹ thuật quân đội hai nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng mỗi nước trong thời kỳ mới.
 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển Bách khoa quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội, 2005.
2. Hậu cần trong khỏng chiến chống phỏp, TCHC, 1984. 
3. Lịch sử hậu cần QĐND Việt Nam, tập 1, Nxb QĐND, Hà Nội, 1995.

Thượng tá Hoàng Văn Hà
Thượng tá Phạm Xuân Sơn