Bảo đảm hậu cần cho trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng (09/4/1288)

09/08/2022, 20:16

Thế kỷ 13, quân Nguyên - Mông, đội quân thiện chiến từng tung hoành khắp Châu Á, Châu Âu, đánh đâu thắng đấy, nhưng hai lần xâm lược nước ta đều bị thất bại nặng nề. Hốt Tất Liệt, vua đế quốc Nguyên - Mông quá tức tối, đã bỏ kế hoạch đánh Nhật Bản để tiến hành xâm lược nước ta lần thứ 3 nhằm rửa nhục và thực hiện âm mưu bành trướng xuống phía nam, làm bá chủ thế giới.

Bạch Đằng 1288 - Trận thủy chiến chấn động thế giới.

Cuối năm 1287, hơn 50 vạn quân Nguyên - Mông do Thoát Hoan (con trai Hốt Tất Liệt) làm tổng chỉ huy từ nhiều hướng tiến vào xâm lược nước ta. Đạo quân chủ yếu do Thoát Hoan chỉ huy từ Quảng Tây ào ạt tiến vào Lạng Sơn. Trần Quốc Tuấn đích thân chỉ huy mặt trận xung yếu này. Theo kế hoạch của ông, quân ta chặn đánh địch quyết liệt ở một số nơi, rồi dần rút lui, tránh quyết chiến với giặc để bảo toàn lực lượng; quân địch tiến xuống Vạn Kiếp. Đạo quân do Ái Lỗ từ Vân Nam cũng theo sông Hồng tiến xuống. Ở vùng biển Đông Bắc, đạo quân thủy với hơn 600 thuyền chiến do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, từ Quảng Đông (Trung Quốc) tiến sang, bị quân ta chặn đánh ở Ngọc Sơn (Mũi Ngọc, Móng Cái), An Bang (Quảng Yên, Quảng Ninh). Tuy bị thiệt hại, nhưng chúng vẫn theo sông Bạch Đằng vào hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương). Đội thuyền lương hơn 70 vạn hộc (1 hộc = 103,55 lít) do Trương Văn Hổ chỉ huy đi sau đạo quân của Ô Mã Nhi đã bị Phó tướng Trần Khánh Dư mai phục ở Vân Đồn - Cửa Lục tiêu diệt hoàn toàn. Kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh và chiếm đóng lâu dài của Thoát Hoan tan theo đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Sau khi xây dựng Vạn Kiếp thành căn cứ quân sự và để một số quân ở lại trông giữ, Thoát Hoan cho quân tiến về Thăng Long. 
 
Trước sức tiến công ào ạt của quân địch, triều đình nhà Trần tạm rút khỏi kinh thành. Nhân dân Đại Việt khắp nơi thực hiện "vườn không nhà trống", không để lương thực rơi vào tay giặc; đồng thời thực hiện đánh du kích, tiêu hao và tiêu diệt nhiều địch, dồn chúng vào tình thế khốn quẫn.
 
Ngày 02/02/1288, gần 32 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy đã chiếm được kinh đô Thăng Long bỏ trống. Nhưng đầu tháng 3/1288, Thoát Hoan phải rút quân về Vạn Kiếp vì sợ bị bao vây, tiêu diệt. Song, Vạn Kiếp cũng không an toàn với chúng. Ban đêm quân ta liên tục tập kích vào các đồn, trại, làm chúng bị tiêu hao, mệt mỏi rã rời. Sau những thất bại ở Vân Đồn, cửa Đại Bàng, Tháp Sơn... nguy cơ bị tiêu diệt ngày càng lớn, quân địch bàn với nhau: "Ở Giao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương của Trương Văn Hổ không đến. Vả lại khi trời nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì chống giữ lâu được; lấy làm hổ thẹn cho triều đình, chi bằng nên  toàn quân mà về thì hơn". Ngày 30/3/1288, Thoát Hoan đành phải quyết định rút lui. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp được lệnh dẫn thủy quân rút trước; quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy rút sau theo đường bộ qua Lạng Sơn. 
 

Lược đồ trận Bạch Đằng năm 1288.

 
Theo dõi chặt chẽ mọi âm mưu, hành động của địch, bằng kinh nghiệm trong các cuộc kháng chiến trước và tài thao lược, Trần Quốc Tuấn chủ trương uy hiếp, buộc địch rút chạy và đánh những trận quyết chiến, tiêu diệt lớn quân địch khi chúng đang rút lui. Trần Hưng Đạo đã cân nhắc rất kỹ và chọn quân thủy của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp là đối tượng trước hết và chủ yếu của trận quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng. Bởi từ Vạn Kiếp theo đường thủy về nước, địch nhất định phải qua sông Bạch Đằng. Tháng 3/1288, đích thân Trần Quốc Tuấn đã nghiên cứu địa hình và quyết định chọn vùng thượng lưu sông Bạch Đằng lập trận địa, bày binh cho trận quyết chiến chiến lược. Đoạn sông này, kể từ chỗ tiếp nước của sông Đá Bạc cho đến Ghềnh Cốc (một vật cản tự nhiên rất giá trị) và cửa sông Kênh, sông Rút dài khoảng 5 km. Dòng sông rộng khoảng 1 km. Đó là đoạn sông đủ dài và rộng, tiện xây dựng các bãi cọc ngầm có thể dồn 600 thuyền chiến địch lại mà diệt nhanh gọn. Hơn nữa, hai bên bờ sông địa hình núi, rừng hiểm trở, kín đáo tiện bố trí quân và giữ được bí mật cho trận mai phục lớn.
 
Cuối tháng 3/1288, từ Vạn Kiếp đạo quân thủy của ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bắt đầu rút. Trên bờ có kỵ binh do Trình Bằng Phi và Đạt Truật chỉ huy đi hộ tống. Quân ta chặn đánh kỵ binh địch, phá cầu, triệt đường tiến quân, buộc chúng phải tìm đường khác quay lại Vạn Kiếp. Thủy binh địch mất hết chỗ dựa trên bờ, trở thành mục tiêu cô lập trên dòng sông. Ngày 08/4, toán tiên phong thủy quân địch do Lưu Khuê chỉ huy đến Trúc Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng) bị quân ta chặn đánh quyết liệt, chúng không thể theo đường sông Giá ra biển mà phải đi theo sông Đá Bạc để ra sông Bạch Đằng. Sáng ngày 09/4/1288, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp cùng với đoàn thuyền chiến của Lưu Khuê theo sông Đá Bạc tiến xuống sông Bạch Đằng và rơi vào trận địa do ta bày sẵn.
 
Quân nhà Trần đem binh thuyền khiêu chiến, rồi giả thua rút lui. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp thúc binh lính đuổi theo. Nước thủy triều xuống, những chiến thuyền đi đầu của địch vấp phải cọc hầu hết bị vỡ và đắm ở khúc sông Bạch Đằng và sông Chanh, khiến đoàn thuyền chiến của địch dài 3 - 4 km bị dồn cả lại. Quân ta từ Gia Đước, Điền Công và hai bờ sông Giá, sông Thải nhanh chóng đánh tạt sườn, chia cắt đội hình tiêu diệt chiến thuyền địch. Gần trưa, nước thủy triều rút rất nhanh, chảy xiết, các chiến thuyền giặc xô vào cọc, đâm vào nhau ngày càng nhiều. Số địch sống sót phải bỏ chạy lên hai bờ sông Bạch Đằng, liền bị quân ta đã bố trí sẵn xông ra tiêu diệt nốt. Đến chiều 9/4/1288 trận đánh kết thúc, toàn bộ đoàn chiến thuyền của địch bị tiêu diệt; Trương Ngọc chết tại trận, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ đều bị bắt sống, ta thu được 400 chiến thuyền địch.
 
Trận Bạch Đằng kết thúc thắng lợi oanh liệt. Từ đây, quân Đại Việt tổ chức phản công truy kích cánh quân của Thoát Hoan trên mọi con đường chúng rút chạy. Thoát Hoan phải mở đường máu chạy thoát về nước. Ý chí xâm lược của một đạo quân từng ba lần cất quân sang đánh nước ta từ đây bị đè bẹp hoàn toàn. 
 
Qua trận đánh này, cho thấy tài thao lược tuyệt vời của Trần Quốc Tuấn cả về chỉ huy, chỉ đạo, nghệ thuật tác chiến cũng như về tổ chức bảo đảm hậu cần và có thể rút ra mấy nét chủ yếu sau:
 
Một là, thành công trong bảo đảm hậu cần cho trận Bạch Đằng dựa trên nền tảng hậu phương được tổ chức vững chắc.
 
Để chuẩn bị đối phó với nguy cơ chiến tranh ngày càng tới gần, trong suốt 30 năm, kể từ cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258), đến cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288), quân và dân nhà Trần đã tập trung mọi nỗ lực để xây dựng hậu phương vững chắc về kinh tế, chính trị, quân sự, là cơ sở, nền tảng tạo ra sức mạnh to lớn bảo đảm cho đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông nói chung và trận Bạch Đằng nói riêng. Phương châm xây dựng hậu phương của nhà Trần trong kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông thể hiện cô đọng trong câu nói của Trần Quốc Tuấn dặn lại vua Trần năm 1300, trước khi ông mất: "Trên dưới đồng lòng… anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc tự bị bắt… khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền, đó là thượng sách để giữ nước". Để có thóc gạo tích trữ phòng khi chiến tranh, năm 1266 nhà Trần đẩy mạnh việc khai hoang mở rộng diện tích trồng trọt. Từ năm 1265 - 1279 đã hai lần đại xá cho phạm nhân trở về làm ăn để tăng sức sản xuất; thực hiện có hiệu quả kế sách "Ngụ binh ư nông", làm cho nông cũng mạnh mà binh cũng mạnh. Về quân sự, nhà Trần thực hiện quan điểm "quân cốt tinh" và "Ngụ binh ư nông" là kế sách hay từ thời Lý tiếp tục phát huy hiệu quả. Ngoài quân chính quy của triều đình, có quân của các địa phương, quân các vương hầu, các tướng lĩnh rất đông đảo, được huấn luyện tốt... Trước nguy cơ chiến tranh, giữa năm 1286, vua Trần cho tuyển mộ thêm quân, sắm thêm vũ khí, đóng thêm chiến thuyền, binh lính được luyện tập binh pháp. Khi quân xâm lược đến, quân dân nhà Trần đã trên dưới một lòng, "Tận dân vi binh, cử quốc nghênh địch" - toàn dân là lính, cả nước đánh giặc. Trong trận Bạch Đằng, nhân dân, các đội dân binh, quân của các lộ, trấn đã phối hợp chặt chẽ với quân tinh nhuệ của triều đình dưới sự thống lĩnh của Trần Quốc Tuấn đã tạo nên sức mạnh to lớn tiêu diệt gọn hơn 6 vạn tên địch trong một ngày.
 

Khuôn ᴠiên Khu di tíᴄh Bạᴄh Đằng Giang, thuộᴄ thị trấn Minh Đứᴄ, huуện Thủу Nguуên, thành phố Hải Phòng.
 
Thành công trong tổ chức xây dựng hậu phương, chuẩn bị lực lượng vật chất cho chiến tranh là nền tảng của việc bảo đảm hậu cần trong kháng chiến và trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng giành thắng lợi oanh liệt.
 
Hai là, tổ chức chuẩn bị hậu cần cho trận quyết chiến chiến lược chu đáo, trong một thời gian ngắn, ở một vùng luôn bị địch càn quét ác liệt.
 
Ngay sau khi quân Nguyên - Mông tiến vào Vạn Kiếp và sau đó là Thăng Long, quân nhà Trần đã rút về vùng ven biển và Đông Bắc, chuẩn bị địa bàn chiến lược quan trọng này cho trận quyết chiến chiến lược. Sau khi đạo quân của Ô Mã Nhi càn quét vùng Yên Hưng, từ giữa tháng 3/1288 quân và dân ta được huy động nhanh chóng vào việc chuẩn bị cho trận đánh. Mọi việc đã được chuẩn bị chu đáo chỉ trong vòng 20 ngày. Trước hết là bổ sung đủ thuyền chiến, thuyền nhẹ dễ cơ động theo yêu cầu của cách đánh. Các chiến thuyền của ta sau khi được chế tạo đã chuyển đến vùng sông Bạch Đằng và bố trí ở các nơi kín đáo ven sông. Để hoàn thành hệ thống trận địa cọc ngầm, hàng ngàn người dân địa phương hăng hái lên rừng chặt gỗ (chủ yếu gỗ lim) đưa về các địa điểm đã định. Để tiêu diệt đoàn chiến thuyền to, quân đông, nhiều trang bị, quân ta đã nắm chắc quy luật thủy triều, có nghệ thuật lừa, dụ địch bằng tác chiến nhỏ lẻ, ngăn chặn, làm chậm tốc độ hành quân của chúng, chờ thời cơ khi nước thủy triều rút phát huy trận địa cọc ngầm để diệt địch. 
 
Cùng với việc bảo đảm đầy đủ vũ khí, phương tiện chiến đấu và cơ động, hậu cần còn lo bảo đảm ăn uống, cứu chữa thương bệnh binh cho một lực lượng lớn gồm thủy binh, bộ binh trong gần một tháng để chuẩn bị và thực hành trận đánh. Mọi việc chuẩn bị về hậu cần tiến hành rất khẩn trương, thời gian quá ngắn, song vẫn giữ được bí mật, mặc dù địch trinh sát, càn quét nhiều lần vùng Yên Hưng nơi chuẩn bị trận đánh.
 
Ba là, tổ chức bảo vệ và huy động nguồn lực hậu cần tại chỗ đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến.
 
Để huy động khả năng bảo đảm hậu cần tại chỗ hiệu quả, nhà Trần đã giữ vững và phát triển hậu phương tại các vùng đất thuộc khu giải phóng. Mặc dù địch huy động hàng chục vạn quân ào ạt đánh chiếm nước ta, nhưng những vùng hậu phương quan trọng đều được giữ vững. Cả một vùng đồng bằng từ nam Vạn Kiếp qua Hải Dương, Quảng Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay vẫn là vùng hậu phương an toàn của quân đội nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba. Đó là nguồn lực hậu cần tại chỗ và kế cận có thể huy động nhanh để bảo đảm cho trận Bạch Đằng. Mặt khác, những nơi địch tràn qua và chiếm đóng, nhân dân ta đã thực hiện "vườn không, nhà trống", bảo vệ nguồn hậu cần cho kháng chiến; đồng thời, tích cực triệt phá nguồn tiếp tế của địch, kết hợp tập kích các trại giặc, làm cho chúng bị tiêu hao, mệt mỏi... ngày càng khốn quẫn, không chi viện được cho thủy binh của chúng.
 
Nhân dân và các chủ trang trại vùng Hải Đông, An Quảng (Hải Phòng, Quảng Ninh) tự nguyện cung cấp lương thực, vũ khí; giúp đỡ việc nấu ăn cho quân đội và sẵn sàng tòng quân giết giặc. Triều đình còn lập nhiều kho lương thực lớn ở A Sào (Quỳnh Phụ, Thái Bình), An Hải (Hải Phòng)... Những nơi hiểm yếu để kháng chiến, quân và dân ta đều có các "áng". Một số "áng" rộng và kín đáo như Áng Châu, Áng Hồ, Áng Nác, Áng Cót... (Áng Châu dài khoảng 250 m, rộng 150 m; Áng Cót dài khoảng 600 m, rộng 100 m; Áng Hồ rộng tới 300 m) vừa là nơi trú quân, vừa là kho tàng cất giấu lương thực, nơi tổ chức chăm sóc, cứu chữa thương, bệnh binh và cất giấu vũ khí, thuyền bè. 
 
Bảo đảm hậu cần là một nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng (năm 1288), chôn vùi hoàn toàn đạo quân thủy hơn 6 vạn tên, tạo thời cơ để mở hàng loạt trận truy quét, đánh đuổi quân Nguyên - Mông ra khỏi bờ cõi nước ta, kết thúc vẻ vang lần thứ ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông. Chiến thắng Bạch Đằng cùng với các chiến thắng khác đã chấm dứt hẳn âm mưu xâm lược của đế quốc Nguyên - Mông với nước ta và bảo đảm cho dân tộc ta giữ vững được nền độc lập, tồn tại sát bên cạnh một đế quốc tàn bạo nhất bấy giờ với tham vọng bành trướng, làm bá chủ thế giới.
 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tìm hiểu công tác hậu cần thời xưa, Tổng cục Hậu cần, Hà Nội, 1977.
2. Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc Nxb QĐND, Hà Nội, 1976. 

Thượng tá, TS. Lê Thành Công
Đại tá, ThS. Trần Đình Quang