Đối tượng được sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là một trong 18 vấn đề lớn của giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đất đai sửa đổi.
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) tại Kỳ họp bất thường lần thứ năm của Quốc hội ngày 15-1, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nhắc đến 18 vấn đề lớn giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật.
Một trong 18 vấn đề đó là về đối tượng được sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế (khoản 1 Điều 201); quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp quân đội, công an khi sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế (điểm h khoản 3 Điều 201).
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu rõ: Trên cơ sở đề xuất của Chính phủ tại Báo cáo số 710/BC-CP, dự thảo luật quy định về đối tượng được sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế bao gồm:
- Đơn vị quân đội, đơn vị công an, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân;
- Doanh nghiệp nhà nước do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được giao quản lý, bao gồm cả “doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ từ trên 50% đến dưới 100% vốn” do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được giao quản lý được cho thuê, thế chấp, góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất theo phương án được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an phê duyệt do mình tạo lập.
Để bảo đảm chặt chẽ khi mở rộng quyền này so với Nghị quyết số 132/2020/QH14, dự thảo luật quy định: Trường hợp mua, bán tài sản gắn liền với đất, xử lý tài sản thế chấp, tài sản góp vốn thì chỉ được thực hiện trong nội bộ giữa các đối tượng sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế theo quy định của luật này theo phương án được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an phê duyệt.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế bảo đảm các mục tiêu quản lý nhà nước, không để xảy ra tình trạng thất thoát, sai phạm, ảnh hưởng đến các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an có trách nhiệm bảo đảm chặt chẽ trong quá trình phê duyệt phương án sử dụng đất, tuân thủ đúng các nguyên tắc được được xác định theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, Kết luận số 59-KL/TW và 90-KL/TW; trong đó, lưu ý quy định rõ tại các văn bản pháp lý với bên thứ ba về các điều kiện xử lý tài sản thế chấp, góp vốn phù hợp với quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp được phê duyệt phương án chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các phương án sử dụng đất bảo đảm hiệu quả, đúng quy định của pháp luật.
PHƯƠNG ANH/QĐND Online